Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

Nàng dâu “hiện đại”

Nàng dâu “hiện đại”
21/03/2012 3:05
Các nàng dâu ngày nay xinh đẹp hơn, hiểu biết hơn nhưng ngại cảnh làm dâu, ngán làm việc nhà
Mới bước vào phòng làm việc, chị Linh, đồng nghiệp của tôi, đã than thở: “Lần này mình nhất quyết thuê nhà ra ở riêng, có tốn kém cũng chịu để khỏi phải chứng kiến cảnh chướng tai gai mắt”. Cảnh chướng tai gai mắt mà chị đề cập chính là Yến, cô em bạn dâu của chị.
Ở chung nhưng không làm dâu
Chị Linh vốn giỏi giang, tháo vác nên từ khi làm dâu đến nay, mẹ chồng chị chưa hề chê trách bao giờ. Nhưng từ khi có Yến về nhà, mọi thứ trong gia đình đều rối tung lên và không khí thật nặng nề.
Tú, em chồng chị Linh, vừa đi lao động ở Nhật về, có một số vốn kha khá. Ba mẹ chồng chị muốn Tú nhanh chóng lấy vợ để ổn định, lo làm ăn. Được bạn bè làm mai cho Yến, cô sinh viên năm 4 Trường Đại học Nông Lâm TPHCM, gia đình khá giả, ba mẹ chồng chị Linh mừng như bắt được vàng.
Tuy ở cùng gia đình chồng nhưng Yến chưa bao giờ làm dâu thật sự: đi học về thì vợ chồng rúc vào phòng riêng, đến giờ ăn thì có mặt, ăn xong lại lên phòng. Còn chị Linh, đi làm về phải tất bật nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăm con nhỏ. Mỗi khi chị Linh phàn nàn, mẹ chồng chị lại xuống nước: “Yến còn đi học mà con”. Chị than thở: “Tưởng đâu có em dâu về san sẻ được việc nhà, ai dè phải làm việc nhiều hơn, còn phải phục vụ em dâu nữa”.
Không biết nấu nướng
Mỗi khi ai nhắc đến hai chữ “con dâu” thì bác họ của tôi lại buồn ra mặt. Bác có 2 người con, cô con gái đầu theo chồng ra nước ngoài định cư, còn anh con trai thì vừa lấy vợ. Vốn có tư tưởng hiện đại, không muốn có chuyện xích mích mẹ chồng nàng dâu, bác tạo điều kiện cho anh chị ở riêng. Bác đã nghỉ hưu nhưng còn khỏe mạnh nên mọi việc trong ngoài đều lo chu tất. Mỗi khi con về chơi, bác đều đi chợ, nấu các món ăn mà con thích. Sau khi ăn uống xong, bác đều giục con dâu và con trai về, cứ để chén đũa bác rửa, dọn dẹp.
Mọi việc vẫn diễn ra như vậy nếu không đến một ngày bác bị bệnh. Anh con trai thông báo cuối tuần về thăm mẹ, bác cũng đánh tiếng để nàng dâu biết mua vài thứ về nấu nướng cho mọi người ăn. Nhưng trái với niềm mong đợi của bác, con dâu mang về nào bánh xèo, bánh canh… mua dọc đường. Chưa hết, cô còn cẩn thận mua luôn chén, dĩa nhựa để ăn xong bỏ luôn cho tiện. Đến mức này, bác đành lắc đầu, tự trách mình quá nuông chiều con dâu.
Khi dâu là... hoa khôi
Mỗi khi có ai khen: “Con bé xinh quá” là bà Thy (nhà ở quận 3 - TPHCM) lại cười tươi. My, con dâu của bà, vốn là hoa khôi của một trường đại học. Nhà khá giả lại có người giúp việc nên My chẳng phải làm gì. Bà còn khuyến khích con dâu ăn mặc đẹp cho xứng với danh hiệu hoa khôi.
Thông thường bà mẹ chồng nào khi cưới dâu cũng mong mau có cháu ẵm bồng. Chính vì vậy, bà khuyến khích con dâu sinh cho bà đứa cháu. “Con sinh con cũng được nhưng mẹ phải lo cho cháu đó”- My ra điều kiện. Tất nhiên bà đồng ý vì nghĩ My nói vậy thôi chứ khi có con, chắc chắn cô phải biết làm mẹ. Nhưng mọi thứ không như bà nghĩ. Sinh con, My nhất định không cho con bú vì sợ hư bộ ngực đẹp.
Thằng bé mới vừa đầy tháng, My đã tham gia các lớp học thẩm mỹ để sớm lấy lại vóc dáng, rồi đi spa, đi họp mặt bạn bè… để mặc con cho bà trông nom. Buổi tối, cô còn giao hẳn thằng bé cho mẹ chồng để… ngủ cho ngon. “Tôi không ngờ con dâu lại xem trọng việc chăm chút nhan sắc hơn con đẻ của mình như vậy”- bà than thở.
Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Tâm, Giám đốc Trung tâm Tư vấn tâm lý Hồn Việt:
Phải là người tổ chức
Các cô dâu dù hiện đại tới đâu cũng cần nhớ rằng hạnh phúc gia đình bắt nguồn từ những điều hết sức giản dị, như làm bữa cơm gia đình, lo lắng chu toàn cho các thành viên, quan tâm đến cảm xúc của người thân, siêng năng sắp xếp mọi việc nhà với trách nhiệm của người chủ gia đình. Dù tự làm hay người giúp việc làm thì phụ nữ cũng phải là người tổ chức công việc gia đình.
Theo Người Lao Động
 Cô Kim: Nàng dâu kiểu đó cho nên sinh ra những hệ quả là:
1-chồng có vợ bé, hoặc bồ khác. Tình yêu qua hết thời “say” mật ngọt là tới lúc người ta “tỉnh táo” nhìn vào thực tế lâu dài. Không ai sống mãi được với một cô nàng làm biếng, bất hiếu, chỉ biết chăm lo cho bản thân. Dù cô vợ đẹp đến đâu rồi anh chồng cũng sẽ chán, và sẽ quan tâm đến những người phụ nữ khác với các đức tính dịu dàng, đảm đang, nữ tính. Vì chính những điều đó mới giữ cho gia đình hạnh phúc lâu bền. Thế là anh ngã lòng. Nếu không chính thức dan díu thì anh cũng “ngoại tình tư tưởng”. Lúc đó cô vợ và những người bên ngoài chỉ biết la làng lên kết tội anh chồng, nhưng không nhìn thấy cái lỗi của cô vợ.
2-sinh ra những đứa con hư. Mẹ như vậy thì con cái chắc chắn không ngoan ngoãn, nên người. Chúng cũng sẽ ích kỷ, sẽ lười biếng, sẽ đua đòi, làm phiền mọi người chung quanh. Và không ai khác hơn là chính bà mẹ đó sẽ “hưởng” trước cái kết quả mà mình đã gieo trồng. Nó sẽ quấy nhiễu cha mẹ trước tiên, và khi về già, bà mẹ đó đừng mong có con hiếu thảo phụng dưỡng mình.
Vì vậy, con trai cưới vợ thường không nghĩ đơn thuần là cưới một cô gái cho mình mà họ còn nghĩ xa hơn là tìm một người mẹ cho con mình. Và dù sau này có “lăng quăng vui đùa chút đỉnh” ở đâu chăng nữa, họ cũng không bao giờ bỏ vợ nhà. Nhiều cô gái nghe mấy ông hứa sẽ ly dị vợ mà lấy mình thì tưởng thật. Nhưng đó chỉ là hứa lèo để lợi dụng mấy cô thôi, chứ mấy ông đánh giá vợ nhà rất cao. Dĩ nhiên, nếu không lăng quăng thì mới đúng là người chồng tử tế 100%, nhưng dù có lăng quăng thì họ cũng đủ tỉnh táo để biết trở về với vợ. 

Phong trào kỹ năng sống

Phong trào kỹ năng sống
21/03/2012 3:25
Kỹ năng sống (KNS) là một trong những khái niệm hết sức thời thượng trong giai đoạn hiện nay. Ở đâu và lúc nào, người ta cũng có thể bàn về khái niệm này. Một làn sóng đua nhau đi học KNS diễn ra ào ạt khắp các tỉnh, thành, đặc biệt là thành phố lớn khiến các trung tâm đào tạo KNS phát triển rầm rộ.
Thiếu KNS hay kỹ năng mềm ở học sinh - sinh viên là một trong những cách nói phổ biến. Yêu cầu phải bổ sung KNS bức thiết đến mức năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đã chính thức lồng ghép KNS vào chương trình các môn văn hóa từ lớp 1 đến 12 với tổng cộng 21 kỹ năng.
Thế nhưng KNS là gì và dạy như thế nào không phải ai cũng biết. Chính chuyên gia của Bộ GD-ĐT cũng thừa nhận: “Trong 10 giáo viên hiện nay chỉ có khoảng 2-3 người đáp ứng được yêu cầu về giảng dạy KNS”. Lãnh đạo của nhiều trường cũng bối rối vì không ít giáo viên nghĩ rằng KNS là dạy đạo đức. Chính vì những điều này nên dù hết sức cố gắng, việc dạy KNS ở các trường phổ thông hiện nay còn hết sức khiên cưỡng, nặng nề cho cả thầy và trò.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày”. Tổ chức này cũng chỉ rõ đối với trẻ em, KNS (life skills) có thể là những khả năng đáp ứng nhu cầu cụ thể của cuộc sống như chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, chạy xe và sử dụng phương tiện công cộng, cách thức để an toàn và sống sót, quản lý tài chính, cách diễn đạt, tổ chức… Và KNS đôi khi khác biệt với các kỹ năng nghiệp vụ.
Như vậy, KNS không phải những gì quá to lớn, cao cả mà chính là những điều thiết yếu diễn ra hằng ngày. Nhận thức được điều này thì việc lồng ghép giảng dạy KNS cho học sinh mới sống động và thực sự có ích. Đó cũng không phải là bài giảng về luân lý, đạo đức, xã hội một cách gượng ép, sống sượng khiến học sinh khó tiếp thu. Trong thực tế có muôn vàn sự kiện, biến cố nên cũng không thể đặt ra số lượng bao nhiêu KNS cần phải được dạy, được học. Vấn đề quan trọng hơn là nhà trường, gia đình cần phải hướng học sinh đến một phương pháp để giải quyết vấn đề, đối phó trước thực tế. Cũng như người ta thường nói hãy cho người cần giúp đỡ cần câu cá chứ không phải con cá.
KNS, theo khái niệm như vậy, rõ ràng không thể chỉ học trong ngày một ngày hai mà phải được giáo dục lâu dài để trở thành thói quen. Chính vì vậy, mong muốn chỉ trong một vài bài học mà học sinh có thể đạt được KNS theo yêu cầu là một điều không tưởng. Cũng như thế, nhiều phụ huynh nghĩ rằng cho con tham gia các khóa KNS trong vòng vài ngày giúp con thay đổi hoàn toàn là một điều không thực tế.
KNS, theo cách hiểu thông thường, cũng không hẳn chỉ giảng dạy ở trường học, các trung tâm. Chính trong sinh hoạt mỗi ngày, thói quen, nền nếp của từng gia đình cũng góp phần dạy trẻ hành vi, khả năng ứng phó trước mọi tình huống trong cuộc sống.
Giáo dục là sự bền bỉ, dài lâu và phải dựa trên một nền tảng vững chắc. Dạy KNS, cũng như thế, “dục tốc bất đạt” và cũng không phải làm để cho có theo phong trào, được chăng hay chớ.
Thùy Ngân (Thanh Niên)
Giáo dục hay nhồi nhét kỹ năng sống
20/03/2012 3:22
Giáo dục kỹ năng sống (KNS) đã được lồng ghép giảng dạy trong các môn học từ lớp 1 đến 12 nhưng học sinh chưa thật sự thích thú, không cảm thấy thiết thực.
Thầy và trò đều cố
Qua một năm thực hiện tăng cường giáo dục KNS ở bậc tiểu học, không ít giáo viên (GV) đều có chung một nhận xét: Việc đưa giáo dục KNS vào giảng dạy là rất cần thiết, giúp học sinh (HS) tự tin hơn, có trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, không phải bài học nào cũng có thể lồng ghép thuận lợi.
Một GV Trường tiểu học Quang Trung (Hà Nội) chia sẻ: “Thời gian đầu chúng tôi rất lúng túng vì cứ “cố” để đưa bằng được nội dung KNS vào bài học. Ví dụ, sau bài học “Ai có lỗi” trong môn tiếng Việt lớp 3, cả cô và trò đều căng thẳng vì không biết HS đã hiểu được các KNS mà yêu cầu lồng ghép của Bộ GD-ĐT đặt ra như: ứng xử văn hóa, thể hiện sự cảm thông và kiểm soát cảm xúc... hay chưa”.
Ông Lê Định, Trường tiểu học La Hà Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi cho rằng: “Có quá nhiều kỹ năng (21 kỹ năng theo tài liệu hướng dẫn của bộ - PV). Một HS tiểu học rất khó xác định mình vừa tiếp cận kỹ năng nào và đã có được kỹ năng nào”.
Lồng ghép khiên cưỡng
Một GV dạy văn Trường THPT Phạm Hồng Thái - Hà Nội, cho biết: “Theo yêu cầu của chương trình giáo dục mới, các tác giả viết sách GV cần tích hợp, kết hợp giáo dục về môi trường, KNS... cho HS trong các môn học chính khóa. Tuy nhiên, các nội dung lồng ghép về dân số, môi trường, kỹ năng sống, phòng chống HIV… đưa vào chương trình học môn văn rất khiên cưỡng, khiến giờ văn trở nên nặng nề, khô khan”.
Qua thực tế giảng dạy, một số thầy cô giáo cũng cho rằng dạy lồng ghép chưa mang lại hiệu quả cao vì thời gian dành cho giáo dục KNS không nhiều, nếu sa đà quá một chút sẽ lại ảnh hưởng đến môn học chính. Đó là chưa kể môn học đó cần hài hòa, nhẹ nhàng, thú vị mới giúp các em có hứng thú học và tiếp thu hiệu quả.
Thiếu chuyên nghiệp
Theo đánh giá của hiệu trưởng các trường, khó khăn lớn nhất khi giảng dạy KNS cho HS là phần lớn GV đều chưa quen việc. Nhiều GV còn hiểu nhầm “đạo đức mới là môn có trách nhiệm giảng dạy KNS”.
Một chuyên gia của Bộ GD-ĐT cho hay: “Trong 10 GV hiện nay chỉ có khoảng 2-3 người đáp ứng được yêu cầu về giảng dạy KNS. Đa số GV còn lại dù rất tâm huyết nhưng không phải ai cũng dạy được vì họ chưa được đào tạo.
Vì lẽ đó mà bà Nguyễn Thị Mai Lan - Viện Nghiên cứu con người, nhận định: “Những KNS mà HS được học trong nhà trường THPT hiện nay còn mang nặng tính hình thức, do đó các em chưa chuyển dịch được những kiến thức được học trong nhà trường thành kinh nghiệm sống của bản thân nên thiếu tự tin khi tham gia trực tiếp vào những hoạt động trong gia đình, nhà trường và xã hội”.
Tuệ Nguyễn - La Giang (Thanh Niên)
Thiếu và yếu phương pháp giáo dục KNS
Đó là một trong những nhận định rút ra từ đề tài nghiên cứu Thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống tại các trường THCS TP.HCM của tác giả Nguyễn Văn Hiến - giảng viên khoa Tâm lý - Giáo dục Trường ĐH Sư phạm TP.HCM.
Đề tài khảo sát trên mẫu gồm 40 GV và 363 HS lớp 8, lớp 9 thuộc 4 trường THCS trên địa bàn TP.HCM. Hầu hết GV và HS 4 trường được khảo sát đều đánh giá mức độ triển khai nội dung các KNS tại trường mình trên thực tế đang ở mức “thỉnh thoảng” và không có sự khác biệt nhiều giữa các trường này. Việc sử dụng phương tiện trong giáo dục KNS khá đơn điệu, chủ yếu là phấn, bảng và tranh ảnh. Các trường chú trọng nhiều đến 2 hình thức tổ chức cơ bản là sinh hoạt dưới cờ và lên lớp mà chưa phát huy hết những hình thức khác trong quá trình giáo dục KNS cho HS.
NHƯ LỊCH (Thanh Niên)
Ý kiến
Nên chọn lọc
Chúng ta phải lồng ghép vào môn học, bồi dưỡng lại đội ngũ GV về phương pháp, tạo điều kiện để HS có thời gian thực hành những kiến thức đã học, để đi vào thực tế. Bên cạnh số môn và nội dung học đã khá nặng, trước đơn đặt hàng của xã hội, ngành GD-ĐT cần bình tĩnh suy xét; cái gì thực sự cần thiết, thực sự là kiến thức - kỹ năng phổ thông hãy đưa vào chương trình giáo dục phổ thông; còn không thì phải giải trình với công luận để tìm hình thức giáo dục khác phù hợp”.
GS Nguyễn Minh Thuyết
Không thể dạy lý thuyết suông
“Nếu có những tiết học dành riêng cho hoạt động rèn luyện KNS thì sẽ tốt hơn rất nhiều so với những giờ học mang tính lý thuyết như hiện nay. KNS chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. HS chỉ có kỹ năng khi các em tự làm việc đó chứ không chỉ nói về việc đó”.
Cô Nguyễn Thị Hòa - GV một trường THPT ở quận Cầu Giấy (Hà Nội)
Bớt số tiết môn văn hóa
“Điều mà Bộ GD-ĐT nên làm ngay là rà soát lại chương trình, bỏ bớt những môn, chương, bài không cần thiết... Bớt đi khoảng 30% số tiết học các môn văn hóa, tăng cường thêm các bộ môn có tính giáo dục nhân bản, nhân văn...”.
PGS Văn Như Cương - Hiệu trưởng Trường phổ thông dân lập Lương Thế Vinh